Chùa Hàn Sơn I Thần phù Chính Đại I Nga Điền I Nga Sơn

https://www.chuahanson.com:443


Động Trúc Sơn - Cửa biển Thần phù

Động Trúc Sơn xưa thuộc trang Trung Sơn, tổng Trung Giáp, huyện Tống Sơn, trấn Thanh Hoa; nay thuộc làng Chính Đại, xã Nga Điền, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Theo sách “Thanh Hoa chư thần lục” (bản dịch), ký hiệu VHv.1290, Thư viện Hán Nôm) của Quốc sử quán triều Nguyễn ghi chép về các vị Thần được tôn thờ ở Thanh Hóa, thì vị Thần được tôn thờ ở trang Trung Sơn có Hiệu duệ là “Bát Hải Long Vương tôn Thần” - Vị thủy thần liên quan đến vùng sông, biển.
Khái quát vị trí địa lý động Trúc Sơn
Động Trúc Sơn được thiên tạo trên dãy núi thiêng Trúc Sơn, thuộc làng Chính Đại, xã Nga Điền, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, nằm ở phía tây Chùa Hàn Sơn cửa biển Thần Phù, được hòa quyện với Lục Vân Động (Chùa Hang, nơi cán bộ cách mạng tiền khởi nghĩa hoạt động) và Bia Thần, Hang Lã Vọng, ở thời hậu Lê. “Chúa Trịnh Sâm” và Vua Lê Thánh Tông, Lê Hiến đã đặc sai ghi tạc bia trên vách núi trải dài theo dòng sông Hoạt, nội dung các bài thơ chủ yếu ca ngợi cảnh đẹp nơi đây và định hướng cho dân chúng vùng này hòa thuận, chăm chỉ học hành, làm ăn phát triển, phú quý. Đặc biệt là bài thơ của Chúa Trịnh Sâm được tạc trên vách núi hang Lã Vọng với nội dung mô tả đêm trăng du thuyền, ngắm cảnh đẹp nơi đây.

Tính từ Chùa Hàn Sơn cửa Thần Phù thì động Trúc sơn cách khoảng 3,5 km, nếu đi bộ mất 60 phút, đi thuyền ngắm cảnh theo sông Hoạt khoảng 50 phút. Đường lên động thật hùng vĩ, non nước hữu tình…,nơi đây du khách như được hòa mình vào núi, mây, sông nước, cỏ cây hoa lá còn nguyên vẹn, hoang sơ. Trước cửa động các hình hài của đá với muôn hình vạn trạng “Rồng chầu, Hổ phụ; Rồng nhả ngọc”, tuyệt tác do thiên nhiên ban tặng động Trúc Sơn. Sau cửa động là thung lũng bằng phẳng rộng khoảng 10 ha, cây cối xanh tốt, chung quanh được bao bọc bởi 5 ngọn núi, tượng trưng cho âm dương, ngũ hành. Đi hết thung lũng, đến đền thờ động Trúc Sơn, trong động thờ bài vị Thánh Trần Quốc Tuân) cùng các vị thánh của dân tộc và Mẫu sơn trang. Tiếp sau ngôi đền, đi theo bậc thang trên vách đá khoảng hơn 100m  vào động Trúc Sơn linh thiêng. Nơi đây vào cuối thế kỷ 17, 18, vị Thần y xưa đã cấp thuốc, chữa bệnh miễn phí cho nhân dân trong vùng và các địa phương lân cận như Trà Lũ, Nam Đinh và các huyện thuộc tỉnh Ninh Bình...   
 
Tương truyền, vào thời Hùng Vương thứ 18, vua Hùng Duệ Vương trị vì đất nước ở vùng đất bãi biển Thần Phù (nay là làng Chính Đại, xã Nga Điền). Khi ấy, dân cư thưa thớt, cuộc sống làm ăn của cư dân cửa biển mang tính tự túc, tự cấp, chủ yếu canh tác lúa nước, khoai, sắn, rau đậu và làm nghề chài lưới đánh bắt cá, tôm. Trong làng có cặp vợ chồng ngư dân sinh sống biệt lập ở ngoài bãi biển núi cọc đó cửa biển Thần Phù (nay là phần lõi của cửa biển Thần Phù)  nhận cô gái mồ côi cả cha lẫn mẹ làm con nuôi, hằng ngày người con gái thường mò cua bắt ốc ven sông Càn. Trong một lần về thăm quê cũ ở trang Phú Dương, tổng Trung Bạn, huyện Tống Sơn, trấn Thanh Hoa; nay thuộc khu phố 5, phường Phú Sơn, thị xã Bỉm Sơn, khi ra sông Lâu tắm, bỗng mây nổi, sóng cồn, có Giao Long nổi lên quấn lấy nàng, sau đó nàng có thai.

Vào một ngày trời quang mây tạnh, nàng sinh ra một cái bọc. Quá kinh hãi, nàng ôm cái bọc ấy thả xuống  dòng sông Lâu. Cái bọc ấy nhiều lần trôi vào vó bè của một ông lão làm nghề vó bè; ông lão thấy kỳ lạ, vớt lên lấy dao rạch, từ trong bọc chui ra ba con Hoàng Xà (nửa rồng nửa rắn, mào đỏ, vẩy vàng) trong ánh hào quang tỏa ra chói lọi. Con lớn bơi thẳng vào bờ, rồi biến mất trong cái giếng tự nhiên (nay là Giếng Thiêng đền Bát Hải Long Vương - Thị xã Bỉm sơn, tỉnh Thanh Hóa). Hai con nhỏ bơi về phía cửa biển Thần Phù (nay là di tích lịch sử cửa biển Thần Phù thuộc làng Chính Đại xã Nga Điền, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa) tại đây cư dân nhìn thấy hai con Hoàng Xà đã biến mất trong động nước núi Trúc. Vào một đêm mưa to, gió lớn, sấm sét đùng đùng, dân cư trong làng nghe âm vang tiếng nói khác thường từ Động nước Trúc Sơn, cửa biển Thần Phù “Ta là Thái tử Long cung, được Vua cha sai lên giúp nước Nam đánh giặc”.

Biết là có Thần linh hiển báo, hôm sau, các bô lão trong làng đến Động thiêng lập ban thờ thắp hương, cầu nguyện; rồi kêu gọi bỏ công sức, tiền của tạo dựng động thành nơi thờ tự của cư dân đối với các vị thần linh, từ đó gọi là động Trúc Sơn, ngày ngày cư dân hương khói. Khi giặc phương Bắc xâm lăng nước Nam, Vua Hùng Duệ Vương sai Sơn Tinh đánh lui giặc trên bộ. Riêng cánh quân thủy của giặc vì có nội gián chỉ đường theo tám cửa biển đánh sâu vào đất liền, thế giặc rất mạnh, nên quan quân thua trận rút dần từng bước. Vua Hùng Duệ Vương lập đàn cầu đảo, được Thiên Đình ứng báo: “Tại cửa biển Thần Phù, có kỳ nhân có thể đánh tan thủy tặc”. Vua sai sứ giả về tìm, dân làng đưa sứ giả đến động Trúc Sơn, Hoàng Xà hiện lên thành hai chàng trai lực lưỡng khôi ngô, tuấn tú. Xin nhà vua cho 10 ngày để cùng anh em và tuyển đủ 10 tướng tài, chiêu mộ quân sĩ sẽ đánh tan giặc dữ.

Kỳ nhân Hoàng Xà dẫn quân ra trận, nhanh chóng phá tan giặc trên cả tám cửa biển. Đất nước trở lại thanh bình, Vua Hùng Duệ Vương phong Thần Hoàng Xà là Vĩnh Công Đại Vương và có ý lưu lại cùng lo việc triều chính. Nhưng Vĩnh Công xin được về quê để dạy dân khai hoang, rửa mặn trồng lúa, trồng rau, chài lưới, trồng dâu, nuôi tằm dệt vải. Đồng thời cắt cử các quan lớn từng theo Thần đánh giặc trấn giữ tám cửa biển nước Nam. Từ đó tám cửa biển nước Nam đều yên ổn, dân cư ngày càng đông đúc, trù phú. Hằng năm, cứ đến dịp ngày đại thắng, Vĩnh Công Đại Vương lại triệu tập các quan lớn ở tám cửa biển về cửa biển Thần Phù (nơi Thần đang ngự) hội tụ để tâu trình việc trông coi an ninh vùng biển, việc chăn dắt dân chúng ở từng vùng. Trong những ngày hội tụ, Thần Vĩnh Công chủ trì, xem xét tình hình tám cửa biển, nhắc nhở các quan lớn chăm lo việc hướng dẫn, bày bảo cho dân khai hoang, lập ấp, cấy lúa, trồng màu, đan thuyền, đan lưới đánh bắt cá, tôm và giữ gìn cho dân chúng được yên lành. Vĩnh Công còn cho tổ chức hội thi bơi thuyền, đánh vật, hát đúm, hát bè giữa các bản hạt, vừa để dân chúng tự hào về chiến công ngày trước và nêu cao tinh thần thượng võ. Bản thân Thần Vĩnh Công cũng tham gia múa hát, vui hội cùng dân chúng. Công đức của Vĩnh Công đối với dân làng Chính Đại rất  lớn, Ngài sống gần gũi với dân như tình cha con, còn dạy bảo dân cấy lúa, trồng dâu, chăn tằm, dệt vải, đánh bắt cá, tôm. Dân Chính Đại cũng như cư dân tám cửa biển nhờ ân huệ của Ngài ngày càng no đủ, xóm làng sầm uất, cuộc sống bình yên, giàu có, rộn vang tiếng đàn, tiếng hát.

Một hôm Vĩnh Công mời các vị hương lão trong làng Chính Đại đến dặn: “Ta cùng các vị là dân lân hương, lập ấp, ăn ở với nhau như tình ruột thịt, nghĩa như cha con; nay ta sắp phải vâng mệnh về chầu Vua cha Long Vương, nếu có nhớ đến ta thì nhà ta ở đây là Động sở, ngày ta đi là ngày Giỗ”. Tất cả hương lão nghe vậy đều nức nở, bùi ngùi. Dứt lời, bỗng trời đất tối sầm, sấm chớp dữ dội. Lát sau trời quang mây tạnh, các hương lão bàng hoàng chỉ còn thấy xiêm y của Vĩnh Công Đại Vương để lại. Hôm đó, nhằm vào ngày 25 tháng Tám năm Mậu Thìn. Dân làng dâng biểu về kinh: Vua Hùng Duệ Vương thương xót ban phong Thần hiệu: “Vĩnh Công Bát Hải Động Đình tôn Thần” lại sai cấp tiền cho dân tổ chức táng tế chu đáo và sửa sang nơi ở của Thần thành Miếu điện, rồi lại hạ sắc miễn thuế cho dân lấy ân lộc ấy hàng năm mà hương khói. Dân làng Chính Đại tôn Thần, cầu mong được Thần phù hộ, độ trì, che chở. Ngôi Miếu thiêng thờ Thần ngoài cửa động được lập vào những năm giữa thời Lê Trung Hưng (thời Lê Trung Hưng từ năm1633-1788). Được tôn tạo vào những năm đầu thời Nguyễn (từ năm 1802- 1945). Ngôi đền tọa lạc trên núi Trúc Sơn thuộc cửa biển Thần Phù thuộc Trung Sơn, tổng Trung Giáp, huyện Tống Sơn, trấn Thanh Hoa (nay là làng Chính Đại, xã Nga Điền, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa). Ngôi đền xưa bị chiến tranh và thời gian tàn phá, nhưng theo ký ức của các cụ cao niên trong làng, hàng năm tôn tạo thờ tự cùng với quần thể di tích lịch sử chùa Hàn Sơn. 

Những năm gần đây với truyền thống “uống nước nhớ nguồn” nhân dân trong vùng và các vùng lân cận góp công, góp của, tôn tạo lại ngôi chùa, nhưng quy mô nhỏ hơn trên nền móng cũ hướng ra sông Hoạt, cửa biển Thần Phù, trước không gian thoáng đãng, linh thiêng.  Năm 2011 quần thể khu di tích lịch sử chùa Hàn Sơn  được UBND tỉnh Thanh Hóa xếp hạng, công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh. Để đáp ứng nhu cầu văn hóa tâm linh của nhân dân trong và ngoài huyện và gìn giữ, bảo tồn phát huy giá trị văn hóa của khu Di tích văn hóa lịch sử Chùa Hàn Sơn. Đồng thời giáo dục tinh thần yêu nước và đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” , nhân dân trong xã và phật tử thập phương đã dâng cúng tôn tạo lại động Trúc Sơn cùng Chùa Hàn Sơn, đáp ứng nhu cầu tâm linh và đời sống văn hóa nhân dân trong vùng. 

Động Trúc Sơn do thiên tạo trên dãy núi Trúc thuộc làng Chính Đại, xã Nga Điền, Nga Sơn, nằm trong quần thể Di tích lịch sử Chùa Hàn Sơn, Cửa biển Thần Phù, Bia Thần và Lục Vân Động, nơi Chúa Trịnh Sâm và các Vua đời Lê lưu bút, ghi danh. Thể theo nguyện vọng chính đáng của các tầng lớp nhân dân và nhất là đối với thế hệ trẻ hôm nay, đề nghị các cấp chính quyền từ Trung ương đến địa phương sớm xác lập và hoàn chỉnh quy hoạch, dự án, trình các cấp có thẩm quyền phê duyệt khu di tích lịch sử Chùa Hàn Sơn, cửa Thần phù, động Trúc Sơn, Lục Vân Động, Bia Thần thành quần thể di tích lịch sử cấp quốc gia, để lại con cháu đời sau trân trọng giữ gìn, tôn tạo và phát triển./.
 
                                                          Nguyễn Duy Thiệu sưu tầm, biên soạn
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây